Các dây chằng chéo khớp gối bao gồm dây chằng chéo trước (ACL) và dây chằng chéo sau (PCL). Dị tật không có dây chằng chéo rất hiếm gặp, áng chừng tỷ lệ vào khoảng 0,017 trên 1000 trẻ sinh ra, dị tật này có thể ở 1 bên hoặc 2 bên gối, có thể cả dây chằng chéo trước và dây chằng chéo sau và có nhiều biến thể khác nhau. Manner, người nghiên cứu về tổn thương này với số lượng bệnh nhân lớn nhất cho đến nay, đã đề xuất 1 phân loại trên phim cộng hưởng từ dựa trên sự có hay không của dây chằng chéo sau (PCL) gồm 3 loại (type):
- Type 1: thiểu sản ACL (chiếm tỷ lệ 15%) hoặc không có ACL (41%) và PCL bình thường.
- Type 2: không có ACL và thiểu sản PCL (21%)
- Type 3: không có cả ACL và PCL (24%)
Tác giả cũng nhận thấy là các bất thường về xương kèm theo cũng tương ứng với phân loại trên cộng hưởng từ. Đầu tiên là, độ rộng và sâu của khe liên lồi giảm dần theo type: từ đóng 1 phần khe liên lồi cầu ở type 1 đến mất hoàn toàn ở type 3. Thứ 2 là, giai đoạn phát triển của gai chầy trong và ngoảiaats khác nhau tuỳ theo loại: gai chầy trong bình thường ở type 1, thiểu sản ở type 2 và không có ở type 3; gai chầy ngoài thiểu sản hoặc không có ở type 1, không có ở type 2 và 3. Do sự mất dần của khe liên lồi cầu và sự không có của gai chầy, cấu trúc khớp dần biến đổi thành khớp dạng “ball and socket” tương tự như khớp vai ở type 3.
Hình ảnh MRI lát cắt đứng dọc cho thấy không có dây chằng chéo sau
Về phôi thai học, các dây chằng phát sinh từ mầm khớp gối cùng các cấu trúc trong khớp khác và quá trình phát triển của các dây chằng chéo tương đối đồng thời với nhau và với các cấu trúc giải phẫu khác trong gối do đó các bất thường khác của dây chằng chéo khớp gối thường đi kèm với các bất thường khác của sụn chêm, mâm chầy và lồi cầu đùi. Sự bất thường trong phát triển của các dây chằng chéo được cho là do có yếu tố tác động xảy ra khoảng tuần thứ 7 ở thời kỳ phôi thai. Quá trình phát triển của PCL diễn ra sớm hơn 1 chút so với ACL, điều đó giải thích tại sao những bất thường phát triển của PCL đơn thuần rất ít gặp. Thời điểm bị tác động sẽ quyết định hình thái tổn thương, nếu sớm các dị tật sẽ nặng như không có cả ACL và PCL (type 3), nếu muộn hơn sẽ là các type nhẹ hơn như PCL bình thường hoặc thiểu sản. Sự bất sản dây chằng chéo sẽ làm thiểu sản khe liên lồi do sự có mặt của dây chằng là yếu tố tạo khuôn để phát triển 2 lồi cầu đùi, cũng tương tự với mâm chầy, do không có lực kéo của các dây chằng chéo trong quá trình phát triển nên các gai chầy cũng không phát triển theo. Ngoài các tổn thương tại chỗ có thể còn có kèm các tổn thương khác như chênh lệch chiều dài chi 2 bên,...
Hình ảnh lát cắt đứng ngang phim MRI cho thấy không có di tích dây chằng chéo sau tại vị trí tương ứng điểm bám ở mâm chầy
Quan điểm điều trị đối với những trường hợp bất sản dây chằng chéo không có sự nhất quán. Đa số các tác giả cho rằng không cần can thiệp gì vì một vài lý do. Thứ nhất là thường bệnh nhân không phàn nàn về lỏng gối mặc dù một số trường hợp có thể có lỏng gối khi thăm khám lâm sàng. Hai là dị tật bao gồm nhiều bất thường khác kèm theo và cơ thể thích nghi với các bất thường đó. Cuối cùng là các bất thường về hình thái lồi cầu thường làm hẹp hoặc thậm chí khe liên lồi cầu không có làm cho việc tiếp cận qua nội soi khó khăn đồng thời không có không gian cho dây chằng mới dự định tái tạo trừ khi phải phối hợp bới thủ thuật tạo hình lại khe liên lồi cầu khá là phức tạp. Một số tác giả cho rằng có thể cân nhắc tái tạo cho những trường hợp thiểu sản vì nguy cơ mất vững về sau tuy nhiên hiện cũng chưa có nghiên cứu nào đánh giá kết quả các trường hợp đó.
PGS. TS Trần Trung Dũng (tổng hợp)