Cuộn mạch (neuromyoarterial glomus) là 1 cấu trúc giải phẫu nằm dưới da, có ở nhiều vị trí trên cơ thể cũng như trong các cơ quan tuy nhiên thường gặp nhất là ở đầu các ngón tay và ngón chân. Cấu trúc này là một phức hợp trong đó chủ yếu là các thông nối trực tiếp từ động mạch sang tĩnh mạch (còn gọi là các kênh Sucquet-Hayer) mà không qua hệ thống lưới mao mạch. Ngoài ra là các loại tế bào và các đầu mút thần kinh đi cùng các mạch máu. Cuộn mạch có vai trò quan trọng trong điều hòa nhiệt độ cơ thể. U cuộn mạch phát triển trên cơ sở cuộn mạch, được Wood phát hiện năm 1812 và sau đó nhiều tác giả nhắc đến nhưng đến 1924 mới được Masson mô tả đầy đủ. U cuộn mạch hiếm gặp, chiếm chưa đến 2% u mô mềm, tỷ lệ ác tính rất thấp (<1%), chiếm dưới 1% các u của bàn tay. Thường gặp nhất ở các đầu ngón tay, ngón chân tuy nhiên có thể gặp ở vị trí khác hoặc là ở nhiều vị trí. Tùy theo thành phần chiếm ưu thế mà về mặt giải phẫu bệnh có thể chia u cuộn mạch thành nhiều loại nhỏ hơn.
Triệu chứng lâm sàng của u cuộn mạch thường là các biểu hiện đau khi bị kích thích cơ học hoặc kích thích nhiệt, cơn đau thường nhanh, lan tỏa từ vị trí đầu ngón, sau đó giảm dần và tự hết, hiếm khi kéo dài. Khi không có kích thích thì không có triệu chứng. Các triệu chứng này là do các đầu mút thần kinh không có myelin bao bọc bị kích thích. Khi khối u lớn, có thể quan sát thấy với biểu hiện vùng màu xanh phía dưới móng tay. Việc thăm khám lâm sàng và khai thác tiền sử bệnh nhân rất có giá trị cho chẩn đoán tuy nhiên ở giai đoạn sớm thường khó khăn do tổn thương nhỏ và các biểu hiện lâm sàng chưa thật rõ ràng, do đó thường bị phát hiện muộn. Trong nghiên cứu của chúng tôi, trường hợp sớm nhất là 1 năm và muộn nhất là 6 năm. Một vài nghiệm pháp lâm sàng được các tác giả mô tả như Love test, Hildresth sign, test nhay cam lạnh,… có giá trị trong chẩn đoán u cuộn mạch.
Có 2 phương pháp cận lâm sàng chính có thể được sử dụng để xác định chẩn đoán u cuộn mạch, đó là siêu âm và chụp MRI. Siêu âm có thể thấy một khối giảm âm dưới móng, tuy nhiên khó khăn trong 1 số trường hợp như khối u quá nhỏ hoặc nhiễu do móng tay bệnh nhân. Siêu âm có giá trị đánh giá kích thước và vi trí tương quan của khối u để giúp cho phẫu thuật được thuận lợi. Cộng hưởng từ có ưu điểm là trong trường hợp phát hiện ra thì sẽ đánh giá được chính xác khối u, tuy nhiên giá thành cao hơn nữa trong một số thể của u cuộn mạch khó phát hiện do đồng tín hiệu với móng tay của bệnh nhân. Hình ảnh điển hình của u cuộn mạch là đồng tín hiệu với móng tay bệnh nhân trên T1 và tăng tín hiệu trên T2. Bên cạnh đó, MRI và siêu âm, đặc biệt siêu âm Doppler có giá trị trong chẩn đoán phân biệt đối với 1 số tổn thương u khác vùng dưới móng. Có tác giả sử dụng phương pháp chọc tế bào làm chẩn đoán trước phẫu thuật tuy nhiên đa số các tác giả lựa chọn việc mổ lấy u và làm giải phẫu bệnh sẽ cho kết quả chính xác hơn.
Điều trị phẫu thuật là lựa chọn duy nhất khi đã có chẩn đoán xác định u cuộn mạch dưới móng. Kỹ thuật phẫu thuật tương đối đơn giản, hiệu quả phẫu thuật cao là những ưu thế được nhiều tác giả công nhận. Một hạn chế có thể là yếu tố thẩm mỹ trong trường hợp phải cắt bỏ 1 phần móng của bệnh nhân.
TS Trần Trung Dũng (lược trích)