Những mô tả về tình trạng cọ xát cơ học của chóp xoay vào mặt dưới mỏm cùng vai được mô tả từ 1909. Một số bài viết cũng mô tả khả năng có tình trạng cọ xát của gân chóp xoay vào phía trước trong, đó là mỏm quạ tuy nhiên hội chứng hẹp khoang dưới mỏm quạ chính thức được mô tả vào năm 1937 và 1941 bởi Meyer và Bennett.
"Khoảng cùng quạ" bao gồm mỏm cùng vai, dây chằng cùng quạ và mỏm quạ. Do kích thước mỏm quạ tương đối biến thiên nên kích thước "khoảng cùng quạ" cũng thay đổi và tương quan giữa khoảng này và gân chóp xoay cũng thay đổi. Một số nghiên cứu trên xác cũng chỉ ra sự mất vững phía trước của khớp vai cũng có thể là nguyên nhân dẫn đến tình trạng thu hẹp khoảng cách giữa xương cánh tay và mỏm quạ. Sự thay đổi "khoảng cùng quạ" dẫn đến thu hẹp khoảng cách giữa xương cánh tay và mỏm quạ là nguyên nhân của hội chứng hẹp khoang dưới mỏm quạ. Tình trạng hẹp khoang này làm cho gân dưới vai bị cọ xát giữa mấu động nhỏ của xương cánh tay và mỏm quạ khi khớp vai chuyển động, đặc biệt các động tác xoay trong, khép vai. Sự cọ xát làm cho gân dưới vai bị viêm và gây đau.
Về bệnh sử, hội chứng này thường gặp nhất ở những bệnh nhân có tiền sử có tình trạng quá tải vận động khớp vai kéo dài, hoặc các vi sang chấn thường xuyên, đặc biệt ở các tư thế động tác nâng vai phía trước, xoay trong và khép vai. Các nghiên cứu chẩn đoán hội chứng hẹp khoang dưới mỏm quạ ít hơn so với khoang dưới mỏm cùng vai do tính phổ biến thấp hơn nhưng cũng dựa chủ yếu vào việc thăm khám lâm sàng, x quang, cắt lớp vi tính và cộng hưởng từ cũng như các nghiệm pháp tiêm để chẩn đoán. Những trường hợp có tổn thương rõ ràng và đơn thuần của rách gân dưới vai là điển hình của hẹp khoang dưới mỏm quạ. Một số trường hợp, hẹp khoang dưới mỏm quạ lại là nguyên nhân của tình trạng đau vai tái diễn sau phẫu thuật sửa chữa gân chóp xoay.
Trong các nghiệm pháp thăm khám lâm sàng để chẩn đoán hẹp khoang dưới mỏm quạ thì có nghiệm pháp coracoid impingement test, nghiệm pháp này thực hiện tương tự nghiệm pháp Hawkin tuy nhiên tư thế tay của bệnh nhân khép vắt chéo qua thân mình, xoay trong cánh tay và nâng về phía trước. Ở tư thế này, mấu động nhỏ sẽ tiến gần về phía mỏm quạ nhất và bệnh nhân sẽ đau khi thực hiện nghiệm pháp nếu có tình trạng hẹp khoang dưới mỏm quạ. Bên cạnh các thăm khám lâm sàng, việc sử dụng thuốc tê lidocaine tiêm vào khoang dưới mỏm quạ cũng có giá trị chẩn đoán tương tự như khi thực hiện cho khoang dưới mỏm cùng vai.
Chẩn đoán hình ảnh có vai trò khá quan trọng trong việc đánh giá tình trạng hẹp khoang dưới mỏm quạ tương tự như khoang dưới mỏm cùng vai. Phim X quang vẫn có giá trị chẩn đoán đặc biệt ở tư thế chụp khớp vai thẳng trước sau và tư thế chụp vuông góc với mặt phẳng xương bả vai. Ở hai tư thế này có thể phát hiện các bất thường về xương có thể là nguyên nhân của hội chứng hẹp khoang dưới mỏm quạ. Phim cắt lớp vi tính và cộng hưởng từ có giá trị đánh giá hình thái mỏm quạ cũng như các tổn thương giải phẫu của khoang dưới mỏm quạ. Việc đánh giá hình thái mỏm quạ có thể dựa vào chỉ số mỏm quạ (coracoid index) với giá trị trung bình là 8,2 mm như công bố của Dine hoặc xác định khoảng cách giữa mỏm quạ và phần gần nhất của xương cánh tay có giá trị tối thiểu 6,8mm như công bố của Gerber. Ngoài ra còn có thể đánh giá các chỉ số khác như kích thước của khoảng quạ cánh tay khi cánh tay xoay trong, ...
Và cuối cùng, 1 phương pháp chẩn đoán nữa là nội soi khớp, thông thường trong những trường hợp rách gân dưới vai, có thể sẽ quan sát trực tiếp hiện tượng cọ xát của gân dưới vai ở vị trí mấu động nhỏ vào mỏm quạ.
Việc điều trị phụ thuộc vào mức độ tổn thương có hay chưa của gân dưới vai, triệu chứng lâm sàng và nhu cầu điều trị của bệnh nhân. Trong trường hợp chưa có tổn thương gân, các biện pháp điều trị bao gồm nội khoa và vật lý trị liệu, điều chỉnh hoạt động của khớp vai, tránh các động tác nâng cánh tay khi cánh tay khép và xoay trong. Điều trị phẫu thuật được đặt ra khi có tổn thương gân dưới vai. Cũng tương tự như khi phục hồi tổn thương gân trên gai do hẹp khoang dưới mỏm cùng vai thì việc phục hồi gân dưới vai chỉ được thực hiện khi kiểm tra thấy hết tình trạng hẹp khoang. Một số trường hợp hẹp nặng, việc tạo hình mỏm quạ có thể đặt ra và được thực hiện với nhiều kỹ thuật khác nhau qua nội soi hoặc mổ mở.
Tóm lại, hội chứng hẹp khoang dưới mỏm quạ cần phải được đánh giá và loại trừ ở những bệnh nhân có triệu chứng đau vai phía trước, mặc dù ít phổ biến hơn hội chứng hẹp khoang dưới mỏm cùng vai tuy nhiên cũng có thể có đồng thời 2 hội chứng cùng lúc gây tổn thương các gân cơ trên gai và dưới vai. Trong trường hợp có tổn thương gân dưới vai đơn thuần hoặc phối hợp, việc đánh giá kỹ các chỉ số rất quan trọng và nếu có chỉ định phẫu thuật khâu phục hồi gân cơ dưới vai thì việc đánh giá kỹ qua nội soi tình trạng hẹp khoang và việc can thiệp tạo hình đóng vai trò tiên quyết trong thành công của phẫu thuật.
PGS. TS Trần Trung Dũng (tổng hợp)