Sụn viền khớp vai là một cấu trúc giải phẫu, bao quanh ổ chảo xương vai, là phần tiếp khớp với xương cánh tay và có vai trò làm sâu thêm ổ chảo để tăng khả năng chống trật khớp cho khớp vai. Gân nhị đầu dài xương cánh tay là 1 trong 2 đầu gân của cơ nhị đầu cánh tay. Cơ này có tham gia vào động tác gấp và sấp khuỷu tay. Gân nhị đầu dài chạy vào trong khớp và bám vào bờ trên ổ chảo xương vai và liên tục với phần trên của sụn viền. Đoạn trong khớp này của gân nhị đầu có vai trò phức tạp trong đó có 1 vai trò được nhắc đến là định hướng cho chuyển động của chỏm xương cánh tay trong động tác dạng vai.
Cấu trúc sụn viền và gân nhị đầu ở chỗ bám vào bờ trên ổ chảo xương cánh tay gọi là cấu trúc SLAP (superior labrum anterior to posterior). Cấu trúc này dễ bị thương tổn khi dư lực của cơ nhị đầu tác động vào chỗ bám ở bờ trên ổ chảo gây nên thương tổn. Cơ chế chấn thương thường gặp là khớp vai xoay trong khi khuỷu tay duỗi đột ngột, thường gặp trong động tác ném bóng, vật nặng hoặc động tác phát bóng trong tennis. Chấn thương có thể nặng ngay lập tức hoặc tăng dần do bị tác động lặp đi lặp lại.
Triệu chứng chính của tổn thương này là đau, tùy mức độ tổn thương có thể đau khi vận động vai ở 1 số động tác hoặc đau ê ẩm thường xuyên nếu kèm theo tình trạng viêm của gân. Đau có thể lan xuống vùng cánh tay hoặc cẳng tay. Đôi khi đau cảm giác mơ hồ, không rõ ràng. Bên cạnh đau là tình trạng giảm vận động do đau, bệnh nhân có thể không thực hiện được động tác do đau hoặc khi cố thực hiện sẽ bị mất lực để thực hiện động tác. Đôi khi triệu chứng đau giống với đau do các nguyên nhân khác của bệnh lý nội khoa như viêm gân cơ, viêm quanh khớp vai, ... nên cần phải thăm khám kỹ mới có thể phân biệt được.
Tổn thương SLAP là tổn thương khó, vị trí nằm sâu trong khớp nên chẩn đoán dựa vào việc thăm khám kỹ bằng những nghiệm pháp thăm khám lâm sàng chuyên khoa kết hợp với phim cộng hưởng từ khớp vai, tốt nhất là máy cộng hưởng từ 1.5 Tesla trở nên và tốt hơn nếu có thể là tiêm thuốc cản quang nội khớp. Thương tổn này cần phân biệt và đánh giá với các tổn thương khác như chóp xoay, sụn viền trước dưới.
Việc điều trị tùy theo mức độ tổn thương trong đó, ở những mức độ nặng thì phẫu thuật là phương án cần cân nhắc nhằm mục tiêu đầu tiên là cải thiện triệu chứng đau và sau đó là mức độ vận động. Trong đó, triệu chứng đau có thể được cải thiện tương đối tốt còn mức độ vận động thì có cải thiện nhưng không thể đạt mức 100% như trước khi chấn thương. Với sự phát triển của phẫu thuật nội soi, khả năng phục hồi lại vị trí tổn thương tương đối dễ dàng mà ít ảnh hưởng đến các cấu trúc giải phẫu lân cận. Sau mổ khoảng 2 tháng, bệnh nhân có thể trở lại với các hoạt động sinh hoạt thông thường nhưng không thực hiện các động tác nhanh mạnh hoặc mang xách nặng. Trong 2 tháng đầu, cần tập vận động để duy trì biên độ vận động của khớp vai và tránh teo các cơ quanh vai.
TS Trần Trung Dũng (tổng hợp)