Dây chằng chéo trước bị đứt thì không có khả năng khâu nối lại do những đặc thù tổn thương nên về mặt kỹ thuật là không thể khâu nối. Vì vậy, các phẫu thuật dây chằng chéo trước đều phải tạo hình, nghĩa là làm lại 1 dây chằng mới để thực hiện chức năng của dây chằng cũ.
Trong vấn đề tạo hình dây chằng chéo trước, có rất nhiều vấn đề cần quan tâm và trong đó có vấn đề về vật liệu để tạo hình dây chằng. Sử dụng vật liệu tự thân hay đồng loại, vật liệu nào hơn vật liệu nào?
Vật liệu tự thân
Sử dụng mảnh ghép tự thân để tạo hình dây chằng có ngay từ khi trong lịch sử y văn mô tả những tổn thương dây chằng chéo trước khớp gối. Khởi đầu là mảnh ghép gân bánh chè, gân Achille và đến nay, phổ biến nhất là gân bán gân và gân cơ thon (gọi là gân Hamstring). Mảnh ghép tự thân có ưu điểm là an toàn vì của chính bệnh nhân và hơn nữa, là cùng cấu trúc mô nên khả năng liền và tái cấu trúc thuận lợi hơn. Tuy nhiên, sử dụng mảnh ghép tự thân có 2 vấn đề cần quan tâm là: sự mất cấu trúc giải phẫu vùng lấy gân và vấn đề phục hồi chức năng sau phẫu thuật.
Cho đến hiện tại, mảnh ghép tự thân được sử dụng chính là mảnh ghép gân hamstring và nhiều nghiên cứu cho rằng gân hamstring sử dụng cho tạo hình dây chằng có ít chức năng và thứ nữa là khả năng tái tạo lại cấu trúc giải phẫu theo thời gian tuy nhiên về mặt logic thì tất cả các cấu trúc giải phẫu trên cơ thể người đều có ý nghĩa và chức năng của nó. Việc sử dụng gân hamstring cho tạo hình dây chằng nếu ở mức độ vận động bình thường, nghiệp dư thì có thể không nhận ra tuy nhiên ở những vận động chuyên nghiệp hơn thì sự ảnh hưởng có thể thấy rõ hơn và trong trường hợp đó, việc phục hồi chức năng để khôi phục lại chức năng của các nhóm cơ cũng đòi hỏi sự chuyên nghiệp hơn.
Việc sử dụng vật liệu tự thân dẫn đến mất cấu trúc giải phẫu do đó ảnh hưởng đến khả năng vận động phục hồi chức năng sau mổ của bệnh nhân do đau đớn và giảm biên độ vận động. Trong nghiên cứu của chúng tôi khi so sánh nhóm bệnh nhân sử dụng mảnh ghép tự thân và mảnh ghép đồng loại thì sự khác biệt thấy rõ về mức độ đau, khả năng phục hồi biên độ vận động cũng như khả năng đi lại của bệnh nhân ở nhóm đồng loại cao hơn so với nhóm tự thân.
Vật liệu đồng loại
Việc sử dụng vật liệu gân đồng loại trên người, cụ thể là cho tạo hình dây chằng chéo trước khớp gối được thực hiện trên thế giới khoảng hơn 20 năm. Tại Việt nam, đã được thực hiện lần đầu tiên tại bệnh viện Việt Đức, sau đó là bệnh viện Đại Học Y Hà Nội từ năm 2008 và cho đến nay, số lượng bệnh nhân được phẫu thuật bằng mảnh ghép đồng loại đã đạt con số khoảng 100 bệnh nhân với thời gian theo dõi dài nhất đến 4 năm.
Những ưu điểm cụ thể của mảnh ghép đồng loại so với tự thân đã được nhắc đến ở trên, tuy nhiên, khi sử dụng vật liệu đồng loại thì bệnh nhân cũng như nhân viên y tế không chuyên nghành thường có những băn khoăn thắc mắc xung quanh việc sử dụng mảnh ghép đồng loại. Những vấn đề đó là gì?
Một là mảnh ghép gân có bị thải loại không? Có cần sử dụng thuốc chống thải ghép sau mổ hay không? Những hiểu biết về siêu cấu trúc của mảnh ghép cho thấy nguy cơ thải ghép của mảnh gân đồng loại gần như bằng 0, cấu trúc của mảnh gân đồng loại qua xử lý và bảo quản là cấu trúc mô chết, chỉ gồm các sợi collagen, không có tế bào nên yếu tố kháng nguyên hòa hợp mô rất thấp. Vì vậy, việc sử dụng mảnh ghép gân đồng loại cho phẫu thuật không cần sử dụng thuốc chống thải ghép sau mổ.
Hai là sử dụng mảnh ghép có bị nhiễm trùng hay không? Mảnh ghép đồng loại được xử lý bằng tia Gamma trước khi bảo quản, do đó nguy cơ nhiễm trùng mảnh ghép gần như bằng 0, ước tính là nhỏ hơn 1 phần triệu.
Ba là khả năng lây truyền các bệnh truyền nhiễm qua việc sử dụng mảnh ghép? Sàng lọc người cho mảnh ghép là khâu quan trọng nhất, với quy trình sàng lọc tương tự như sàng lọc người hiến máu thì nguy cơ lây nhiễm ước tính là nhỏ hơn nguy cơ truyền máu toàn phần 8 lần. Hơn nữa, các tác giả trên thế giới đã nghiên cứu, phân tích cho thấy khả năng cư trú của các loại virus trên mô gân rất thấp do mô gân rất nghèo mạch máu và chứa rất ít dịch thể. Quá trình xử lý, bảo quản gần như đã làm giảm thiểu các cấu trúc có khả năng chứa virus này.
Việc sử dụng mảnh ghép đồng loại trên thế giới đã được hơn 20 năm với số lượng mảnh ghép gân sử dụng riêng cho tạo hình dây chằng chéo trước tại Mỹ cũng tới gần chục nghìn ca 1 năm cho thấy tính an toàn của mảnh ghép.
Tại Việt Nam, trong thời gian nghiên cứu của chúng tôi, cũng không phát hiện các biến chứng do sử dụng mảnh ghép. Các nghiên cứu trên động vật của chúng tôi cho thấy các biểu hiện liền của mảnh ghép đồng loại với mô chủ.
Lựa chọn mảnh ghép nào?
Vậy thì, sử dụng mảnh ghép nào tốt hơn? Chúng tôi cũng đồng ý với ý kiến của các tác giả thế giới là không có mảnh ghép nào là hoàn hảo hơn mảnh ghép nào? Mỗi loại mảnh ghép có những ưu điểm và nhược điểm của nó, việc lựa chọn mảnh ghép nào phụ thuộc vào hiểu biết của bệnh nhân về ưu nhược điểm của từng loại mảnh ghép, nhu cầu vận động của người bệnh, khả năng cung cấp của cơ sở phẫu thuật, ...
Mảnh ghép của tương lai?
Ngoài hai loại mảnh ghép chính được sử dụng hiện nay như đã trình bày ở trên, hiện tại các hướng nghiên cứu còn tập trung vào 2 loại mảnh ghép nữa là: mảnh ghép tổng hợp và mảnh ghép dị loại (xenograft). Mảnh ghép tổng hợp là mảnh ghép tạo thành từ vật liệu tổng hợp còn mảnh ghép dị loại là mảnh ghép lấy từ cơ thể khác loại, tức là từ động vật để sử dụng cho người, tuy nhiên vẫn còn đang dừng ở mức nghiên cứu trên động vật.
TS Trần Trung Dũng (tổng hợp)
Nguồn: "Nghiên cứu ứng dụng mảnh ghép đồng loại tạo hình dây chằng chéo trước khớp gối qua nội soi". Luận án Tiến sỹ Y học. Trường Đại Học Y Hà Nội 2011